Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp tư vấn xây dựng vừa và nhỏ
2013/8/29 16:23
Đặt vấn đề: Hiện nay thị trường đầu tư xây dựng trong nước có giảm hơn so với những năm trước đây, đặc biệt là đối với các dự án có nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, từ đó hoạt động tư vấn đầu tư xây dựng cũng thu hẹp lại, trong khi các doanh nghiệp tư vấn xây dựng vẫn có xu hướng phát triển về số lượng, đồng thời sự quản lý của Nhà nước về hoạt động tư vấn xây dựng ngày càng chặt chẽ hơn, do đó sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và với các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam ngày càng tăng, cơ hội để các doanh nghiệp tư vấn xây dựng trong nước tiếp cận với các dự án có vốn đầu tư ngoài ngân sách Nhà nước rất khó khăn.Nguyên nhân do năng lực hoạt động để cạnh tranh còn hạn chế, cần thiết phải nghiên cứu các giải pháp nâng cao năng lực để đủ sức cạnh tranh trong môi trường hội nhập Quốc tế của Việt Nam. Với yêu cầu đặt ra như vậy, tác giả đã khảo sát một số doanh nghiệp tư vấn xây dựng và thị trường đầu tư xây dựng để tìm ra nguyên nhân cơ bản của vấn đề (nghiên cứu tại tỉnh Bình Thuận), từ đó đề xuất một số giải pháp để các doanh nghiệp tư vấn xây dựng tham khảo và có những nhận xét xung quanh vấn đề này.
1. Thực trạng các doanh nghiệp tư vấn xây dựng
- Việc đăng ký kinh doanh thành lập doanh nghiệp hiện nay khá dễ dàng, do vậy hàng năm có khá nhiều doanh nghiệp ra đời, bởi hoạt động tư vấn xây dựng không đòi hỏi nhiều vốn ban đầu, các hoạt động đều do con người thực hiện, đến nay đã có trên 200 doanh nghiệp và chi nhánh hoạt động về tư vấn xây dựng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, con số này cho thấy sự canh tranh khá lớn giữa các doanh nghiệp tư vấn xây dựng;
- Năng lực nhân sự: Các doanh nghiệp tư vấn xây dựng vừa và nhỏ hiện nay cơ bản đúng là “nhỏ”, phần lớn nhân sự mỗi doanh nghiệp khoảng 10 -15 người, trong đó “chuyên gia” trong khoảng trên dưới 10 người, hầu như chuyên gia trong các doanh nghiệp này là cộng tác viên (một người cộng tác cùng lúc nhiều doanh nghiệp), các chuyên gia có kinh nghiệm và kỹ năng không nhiều (do dòng chảy nhân sự trong cơ chế thị trường), tiếp cận công việc theo hình thức truyền nhau nên không cơ bản và thụ động;
- Năng lực thiết bị: Thiết bị phục vụ cho hoạt động tư vấn của các doanh nghiệp phần lớn đều không thuộc sở hữu (liên kết và đi thuê), thậm chí hoạt động khảo sát thuê theo sự vụ nên còn phụ thuộc vào người được thuê.
- Năng lực kinh nghiệm: Phần lớn các doanh nghiệp chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là với các dự án lớn có quy mô và tính chất yêu cầu kỹ thuật cao, chủ yếu tham gia vào các dự án lập báo cáo kinh tế kỹ thuật và cấp IV, rất ít có doanh nghiệp đã tham gia các dự án cấp II và III; - Năng lực tài chính: Bởi là doanh nghiệp nhỏ nên hầu hết nguồn lực tài chính còn khiêm tốn, vốn pháp định không cao và doanh thu không lớn từ đó không có điều kiện tích lũy tài chính, còn có doanh nghiệp nợ lương và bảo hiểm nhân viên đã chứng minh đều đó;
- Có khá nhiều doanh nghiệp tư vấn nhỏ, không đầy đủ các hoạt động tư vấn, phần nào cũng ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện công việc theo yêu cầu của khách hàng, với năng lực như nêu trên việc đánh giá xếp hạng không thể thực hiện được, do đó năng lực cạnh tranh là cực kỳ thấp;
- Đến thời điểm hiện nay, một phần do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp, bên cạnh đó một phần do tình hình đầu tư xây dựng có giảm sút, nhiều doanh nghiệp đang rất khó khăn trong các hoạt động của mình, thậm trí trên bờ vực phá sản.
2. Phân tích các nguyên nhân hạn chế cạnh tranh từ năng lực tư vấn
- Thực tế cho thấy, ít có một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác, bởi phần lớn các doanh nghiệp tư vấn xây dựng đăng ký kinh doanh và tham gia rất nhiều hoạt động tư vấn (1), bên cạnh sự hỗ trợ nhau giữa các hoạt động có liên quan (hoạt động khảo sát phục vụ cho hoạt động thiết kế) cũng còn có nhiều hoạt động độc lập, do đó để đảm bảo cho tất cả các hoạt động tư vấn đạt được năng lực cạnh tranh đúng như (5) hầu như chưa đủ điều kiện;
- Chất lượng nguồn nhân lực thấp và chưa có nhiều kinh nghiệm, số lượng chuyên gia cơ hữu trong doanh nghiệp chưa đủ, còn có hiện tượng hợp đồng cộng tác. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý doanh nghiệp rất thiếu kiến thức quản trị và kỹ năng, kinh nghiệm quản lý. Có thể nói, đa số các chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý, luật pháp... và kỹ năng quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế;
- Thường thì mỗi một hoạt động tư vấn các doanh nghiệp chỉ có khoảng 2 - 3 chứng chỉ hành nghề, có nhiều trường hợp một chuyên gia có tới 5 chứng chỉ hành nghề khác nhau (có nghĩa chỉ cần một người có thể đăng ký kinh doanh được 5 hoạt động tư vấn khác nhau). Từ đó, thấy rằng số lượng chuyên gia trong doanh nghiệp không hội đủ theo yêu cầu về xếp hạng, mặc dù trong doanh nghiệp có khá nhiều cán bộ có trình độ đại học nhưng kinh nghiệm trong hoạt động tư vấn còn hạn chế (số lượng và chất lượng chuyên gia còn thiếu và yếu);
- Thời gian hoạt động của các doanh nghiệp chưa cao, còn “trẻ người, non dạ” trong nền kinh tế thị trường mà đất nước đang trong quá trình xây dựng, và sự hội nhập kinh tế quốc tế đang bắt đầu. Tích lũy về kinh nghiệm và hoạch định chiến lược kinh doanh có mức độ, chưa mạnh dạn tiếp cận các thị trường khác ngoài thị trường truyền thống của mình, chính điều này là một rào cản khá lớn trong vấn đề nâng cao năng lực để cạnh tranh;
- Những năm gần đây tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” diễn ra phổ biến, gần như mỗi tỉnh/ thành đều có các trường đại học và cao đẳng hàng năm vẫn “sản xuất” ra những sản phẩm mà thị trường ít có nhu cầu, quan trọng hơn đó là những “sản phẩm” này học thật - bằng thật nhưng không có kiến thức và kỹ năng để có thể bắt tay vào làm việc ngay, nó phản ánh những bất cập rất lớn về nguồn nhân lực mà chúng ta đang có. Điều này bắt buộc nhiều doanh nghiệp phải tổ chức đào tạo lại những người đã qua đào tạo, doanh nghiệp đang chi phí hai lần cả về thời gian và cả về tài chính cho một việc. Như vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và cả nước nói chung là không thể cao;
- Phần lớn các doanh nghiệp chưa có kế hoạch xây dựng thương hiệu, sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh. Phần lớn đang dựa vào các quan hệ xã hội và quy ước ngầm phân chia thị phần, không có các hoạt động tìm hiểu thị trường khác (thị trường mỗi tỉnh / thành và ngoài nước), một trong những yếu tố của thương hiệu đó là chất lượng sản phẩm, chưa thấy doanh nghiệp nào tạo ra được sản phẩm đặc biệt (giải pháp thiết kế)
- Chính sách của Nhà nước cũng là yếu tố tác động vào doanh nghiệp làm ảnh hưởng tới năng lực: + Cơ hội tiếp cận các dự án lớn và có kỹ thuật cao không có, do rào cản của các quy định hiện tại như: Đã tham gia công trình tương tự, các dự án ODA ưu tiên doanh nghiệp của nước tài trợ…;
+ Bố trí vốn cho các dự án đã triển khai hầu như không đảm bảo theo tiến độ thực hiện (ví dụ: dự án thực hiện hoàn thành trong vòng 1 năm, nhưng bố trí vốn có trường hợp 3 - 4 năm);
+ Chính sách về thuế làm cho nhiều doanh nghiệp lao đao. Như, đã nghiệm thu là phải xuất hóa đơn và chịu thuế VAT, trong khi vốn thanh toán chưa có, thậm trí hoạt động thiết kế hoàn thành (đã nghiệm thu) nhiều khi dự án không thực hiện. Vẫn bắt buộc phải nộp thuế (có thể đi vay).
3. Thông tin về năng lực tư vấn xây dựng
Các lĩnh vực tư vấn xây dựng là hoạt động kinh doanh có điều kiện, thông qua chứng chỉ hành nghề của mỗi cá nhân tham gia (2), chứng chỉ hành nghề do Bộ Xây dựng và Bộ Kế hoạch đầu tư quản lý chung có phân cấp cho các sở Xây dựng cấp và chứng nhận do các tổ chức hợp pháp được 2 Bộ trên cho phép đào tạo cấp;
Năng lực của các doanh nghiệp tư vấn xây dựng theo quy định hiện nay “được xác định theo cấp bậc trên cơ sở năng lực hành nghề xây dựng của các cá nhân trong tổ chức, kinh nghiệm hoạt động xây dựng, khả năng tài chính, thiết bị và năng lực quản lý của tổ chức” (3).
4. Số lượng và chất lượng chuyên gia
- Đối với hoạt động tư vấn xây dựng, kết quả của sản phẩm hoàn thành là giá trị chất xám của mỗi chuyên gia tham gia, các chuyên gia này phải hội đủ rất nhiều yếu tố mới có thể hoàn thành sản phẩm của mình (trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng làm việc, chứng chỉ/ chứng nhận được cấp, sự hiểu biết về kinh tế - xã hội, vận dụng - ứng dụng khoa học kỹ thuật...);
- Số lượng và chất lượng chuyên gia trong một doanh nghiệp tư vấn xây dựng không những là “xương sống” mà còn là “sức khỏe” của doanh nghiệp đó, nó là bản chất của năng lực doanh nghiệp khi tham gia thị trường, trong môi trường cạnh tranh và hội nhập vì liên quan tới xếp hạng doanh nghiệp (4). Theo quy định hiện hành mỗi một hoạt động tư vấn đều có các yêu cầu để đánh giá xếp hạng.
4.2. năng lực về kinh nghiệm:
- Ta thấy rằng kinh nghiệm hoạt động tư vấn xây dựng của tổ chức chính là tập hợp kinh nghiệm của các chuyên gia đang làm việc tại tổ chức đó, như vậy số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực sẽ hình thành nên kinh nghiệm của tổ chức, đồng thời bên cạnh đó thời gian hoạt động của doanh nghiệp sẽ cấu thành năng lực kinh nghiệm của tổ chức đó;
- Để đánh giá năng lực kinh nghiệm của tổ chức, cần phải xem xét đến số lượng chuyên gia và kinh nghiệm của mỗi chuyên gia có đủ đáp ứng theo yêu cầu chung và cho hoạt động đó hay không.
Khả năng về tài chính và năng lực thiết bị:
- Trong hoạt động tư vấn xây dựng, chi phí bất biến và chiếm nhiều nằm ở chi phí chuyên gia, các chi phí khác để cấu thành giá trị sản phẩm thường chiếm tỷ trọng không cao (các chi phí về thiết bị, chi phí về các hoạt động của văn phòng, chi phí tiếp thị và khuyến mãi), điều đó thấy rằng năng lực tài chính của doanh nghiệp tư vấn xây dựng hoàn toàn khác với năng lực tài chính của doanh nghiệp xây lắp, tuy nhiên doanh nghiệp có nguồn tài chính dồi dào càng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong kinh doanh, đó là sức hút các chuyên gia đến với mình và là niềm tin để khách hàng yên tâm khi đặt hàng;
- Thiết bị phục vụ cho hoạt động tư vấn xây dựng phần lớn giá trị không cao như thiết bị thi công xây dựng, những thiết bị chiếm nhiều không gian sử dụng và tài chính nhiều nhất thuộc về hoạt động thí nghiệm kiểm tra phục vụ cho các phòng LASXD (ví dụ: máy toàn đạc điện tử để khảo sát chỉ khoảng vài trăm triệu, trong khi máy rải bê tông nhựa nóng phải vài tỷ đồng...);
- Thực tế ngoài các phòng LAS-XD các doanh nghiệp tư vấn xây dựng thường liên kết với nhau trong sử dụng thiết bị phục vụ hoạt động của mình (tất nhiên không tính các thiết bị phục vụ văn phòng, như : máy vi tính, máy in, máy photocoppy…); các thiết bị chủ yếu phục vụ cho hoạt động khảo sát; các hoạt động khác như thiết kế, thẩm tra, giám sát, đấu thầu, kiểm toán gần như không có. Năng lực về tổ chức và quản lý:
- Hầu hết các doanh nghiệp đều có mô hình tổ chức gần giống nhau là áp dụng mô hình cơ cấu theo chức năng, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì cơ cấu này cũng khá hợp lý, tuy nhiên có hiện tượng quá tổng hợp nhiều nội dung một chức năng, thường là ở chức năng có các chuyên gia giỏi nhiều kinh nghiệm, dễ dẫn tới chồng chéo và quá tải cho chức năng đó;
- Trình độ, năng lực tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế trong quản trị doanh nghiệp có hạn chế rất lớn, mặc dù lãnh đạo các doanh nghiệp (Giám đốc, chủ tịch Hội đồng quản trị) đều có trình độ từ Đại học trở lên, nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược kinh doanh mà vẫn chủ yếu kinh doanh dựa trên kinh nghiệm, kinh doanh theo sự vụ.
5. Giải pháp nâng cao năng lực tư vấn
Theo kết quả khảo sát, tới đây thị trường xây dựng trong nước sẽ tăng trở lại, khi mà hình thức PPP phát triển rộng, các nhà tài trợ ODA đã cam kết dành cho Việt Nam năm 2013 hơn 6,5 tỷ USD (5), Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hình thức BOT (đặc biệt là về giao thông), nguồn vồn FDI tiếp tục chảy vào nhờ các chính sách khơi thông của Nhà nước.
Các doanh nghiệp tư vấn xây dựng trong nước có rất nhiều cơ hội để tiếp cận công việc, song bên cạnh đó cũng đứng trước nhiều thách thức to lớn, đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu ngày càng gay gắt của cơ chế kinh tế thị trường và sức ép hội nhập quốc tế. Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tư vấn xây dựng Việt Nam cần phải giải quyết một số vấn đề sau: Tăng cường năng lực quản trị kinh doanh:
- Nâng cao những kỹ năng cần thiết và cập nhật những kiến thức hiện đại để chủ động ứng xử và ra quyết định kịp thời, hoàn thiện kiến thức và kỹ năng có thể đã có nhưng cần được hệ thống hoá và cập nhật, một số kỹ năng như: Tổ chức quản lý doanh nghiệp; Quản trị nhân sự; Thuyết trình, đàm phán và giao tiếp; Quản trị trong môi trường cạnh tranh; Quản lý thời gian; Ngoại ngữ... Kết hợp với điều chỉnh hợp lý tầm quản trị phù hợp với yêu cầu của đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp và xây dựng mạng lưới thông tin, xem xét các quyết định đưa ra một cách chính xác, hợp lý;
- Cần xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp, phải có sự phân biệt về nội dung công việc của các bộ phận, tránh sự chồng chéo vừa không phân định được trách nhiệm, vừa ảnh hưởng đến kết quả của dây chuyền hoạt động, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tư chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp một cách nhịp nhàng;
- Có cơ chế và phương pháp đảm bảo thông tin trong nội bộ, đây là điều kiện quan trọng trong sự tồn tại của bất cứ một tổ chức nào, đảm bảo thông tin làm cho mọi thành viên hiểu rõ được mục đích của tổ chức, có thể đạt được sự thống nhất giữa mục đích cá nhân và mục đích của tập thể, thông tin nào cần lưu hành nội bộ và thông tin nào cần phải truyền được tới các khách hàng hoặc đối thủ;
- Nên áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế như ISO 9000, HACCP, ISO 14000... trong quản trị doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Để có được đội ngũ lao động đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
- Sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và các chuyên gia hiện có ở trong doanh nghiệp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với chuyên môn, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, chuyên gia đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có;
- Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: Đầu tư cho đào tạo, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp;
- Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ,sử dụng thành thạo vi tính (các phần mềm hỗ trợ trong hoạt động tư vấn), am hiểu thị trường thế giới và luật lệ quốc tế.
Phát triển năng lực kinh nghiệm
Kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp đảm bảo yếu tố năng lực và dự đoán chính xác nhu cầu trên thị trường trong từng thời kỳ, từ đó giúp doanh nghiệp chủ động trong việc hoạch định chính sách và chiến lược sản xuất kinh doanh cũng như tiếp thị khách hàng đạt hiệu quả cao, sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí khác;
Kinh nghiệm là một trong các yếu tố cấu thành năng lực của doanh nghiệp, ngoài kinh nghiệm của từng cá nhân trong tổ chức phải tính đến kinh nghiệm thực tiễn thông qua các hoạt động mà doanh nghiệp mình tham gia (thông qua các hợp đồng đã thực hiện), trong điều kiện năng lực còn hạn chế doanh nghiệp phải vận dụng nhiều hình thức khác nhau để nâng cao năng lực kinh nghiệm (liên danh - liên kết, thầu phụ...);
Để tiếp cận được các dự án có quy mô và tính chất phức tạp, đặc biệt khu vực nguồn vốn ngoài ngân sách, các doanh nghiệp tư vấn xây dựng cần xem xét một số biện pháp nâng cao năng lực chung:
+ Tập hợp các doanh nghiệp lại với nhau dưới dạng một tổng công ty tư vấn, có phân chia công việc theo nội dung hoạt động và quy mô của mỗi doanh nghiệp; + Liên doanh - Liên kết giữa các doanh nghiệp trong tỉnh hoặc trong quốc gia (liên kết nhóm), vừa bổ sung các khiếm khuyết của nhau, vừa là cơ hội để học hỏi lẫn nhau trong kinh doanh, vừa là điều kiện để loại trừ đối thủ cạnh tranh;
+ Xem xét cần thiết tập trung lựa chọn một số lĩnh vực tư vấn chủ đạo để tập trung đầu tư, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh cho hoạt đợng tư vấn đó;
+ Thông qua các tổ chức hiệp hội (Hiệp hội nhà thầu; Hiệp hội xây dựng và Hội doanh nhân trẻ) kiến nghị lãnh đạo địa phương có cơ chế và tác động vào các dự án (ví dụ: giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đất, thuế tài nguyên... cho các dự án có nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư tại địa phương, với điều kiện để các doanh nghiệp trên địa phương tham gia...).
Nguồn lực tài chính, thiết bị
Nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng trong quyết định kế hoạch kinh doanh cũng như là chỉ tiêu để đánh giá quy mô của doanh nghiệp, bên cạnh đó tài chính hùng mạnh sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các khách hàng;
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm trang thiết bị, nguyên liệu hay phân phối, quảng cáo cho sản phẩm... đều phải được tính toán dựa trên thực trạng tài chính của doanh nghiệp, một doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh mẽ sẽ có khả năng trang bị công nghệ máy móc hiện đại, có sức hút các chuyên gia trình độ cao và giàu kinh nghiệm đến với doanh nghiệp. Ngoài ra, với một khả năng tài chính hùng mạnh, doanh nghiệp cũng có khả năng chấp nhận lỗ một thời gian ngắn để hạ giá thành sản phẩm nhằm giữ vững và mở rộng thị phần cho doanh nghiệp và giữ lại các chuyên gia;
Doanh nghiệp phải có kế hoạch nâng cao khả năng tài chính của mình, có nhiều phương pháp và cách thức tích lũy tài chính sao cho phù hợp với từng thời kỳ, như: Định dạng hệ thống quản lý hiệu quả, xem xét các chi phí chưa hoặc không hợp lý, định mức các chi phí có biên độ nhỏ và phù hợp, phát hành cổ phiếu, liên kết kinh doanh... Vì vậy vấn đề tài chính luôn luôn là vấn đề gây nhiều trăn trở cho nhà quản lý. Không chỉ vậy trong nền kinh tế thị trường, trở thành biểu tượng cho sự giàu có phát đạt, sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp sẽ tăng lên;
Thiết bị của doanh nghiệp cũng là một tiêu chí đánh giá và xếp hạng. Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ tiên tiến phù hợp với qui mô sản xuất của doanh nghiệp chắc chắn sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Khả năng chiến thắng trong cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ rất lớn, đồng thời sẽ làm tăng chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất. Nguồn lực cơ sở vật chất có thể là:
- Số lượng, chủng loại và tình trạng máy móc công nghệ, khả năng áp dụng công nghệ mới tác động đến các hoạt động tư vấn;
- Chủ sở hữu: Thuộc chủ sở hữu vừa chủ động trong hoạt động của mình, vừa đặt nền móng niềm tin cho khách hàng;
- Vị trí địa lý của doanh nghiệp cũng có thể tác động đến chi phí sản xuất, (đất đai, nhà cửa, lao động,...) nguồn nguyên liệu, sự thuận tiện của khách hàng.
Xây dựng thương hiệu và văn hóa Doanh nghiệp
- Doanh nghiệp cần phải xây dựng thương hiệu nhằm khẳng định sự tồn tại và phát triển, trên tinh thần hướng tới tương lai chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước, qua đó tạo niềm tin cho khách hàng (thông qua chất lượng sản phẩm, thực hiện đúng các quy định của pháp luật, hạn chế sai sót trong qua trình thực hiện...;
- Xây dựng thương hiệu về nâng cao năng lực cạnh tranh: phải làm gì để tiếp cận và ứng dụng thành quả khoa học áp dụng cho công tác tư vấn, có trường hợp qui phạm Việt Nam chưa có, thì phải phân tích nhiều phương án kinh tế kỹ thuật một cách khoa học, để chủ đầu tư thấy đây là đơn vị tư vấn nổi trội;
- Để xây dựng một thương hiệu được khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ khách hàng của mình hơn ai hết, và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động;
- Doanh nghiệp phải coi thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Luôn nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Do vậy, việc đăng ký sở hữu công nghiệp, đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương hiệu tại các thị trường mà doanh nghiệp có chiến lược đầu tư kinh doanh là rất cần thiết.
Văn hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi yếu tố văn hoá, ngôn ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri thức thì doanh nghiệp đó khó có thể đứng vững và tồn tại được. Trong khuynh hướng xã hội ngày nay thì các nguồn lực của một doanh nghiệp là con người mà văn hoá doanh nghiệp là cái liên kết và nhân lên nhiều lần các giá trị của từng nguồn lực riêng lẻ. Do vậy, có thể khẳng định văn hoá doanh nghiệp là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp.
Văn hoá của doanh nghiệp được thể hiện ở phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo và tác phong làm việc của nhân viên. Đối tác khi quan hệ thì ngoài việc quan tâm tới lợi nhuận của công ty họ còn đánh giá doanh nghiệp qua văn hoá của doanh nghiệp đó (văn hóa doanh nghiệp nhiều khi rất đơn giản như đồng phục cơ quan, huy hiệu, lôgô...).
Sự hỗ trợ của Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước
Chính phủ và các cơ quan nhà nước cần góp phần mạnh mẽ hơn nữa trong việc xây dựng và hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp. Các công cụ chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ trên các mặt khác nhau là rất cần thiết. Môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý và các nhân tố xã hội có ảnh hưởng rất lớn đối với doanh nhân và nền kinh tế của đất nước. Do đó, thông qua chủ trương chính sách cụ thể, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hiệu quả và phát triển bên vững;
Đặc biệt trong các dự án ODA, cần có những thương thảo đem lại lợi thế cho các doanh nghiệp trong nước thông qua hiệp định ký kết, trong lịch sử và đến nay phần lớn đều phải ưu tiên doanh nghiệp tư vấn của nước tài trợ, đây là điều nghịch lý, vì lẽ các công ty nước ngoài không am hiểu điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của địa phương có đầu tư dự án, nên thông thường họ lại thuê các công ty trong nước thực hiện. Vì thiếu công ăn việc làm, các công ty trong nước phải chấp nhận ký lại với giá rẻ mạt. Dễ nhận thấy nhất là trường hợp các công ty của Trung Quốc đang hoạt động tại Việt Nam?
Chính phủ cần thành lập một số tổ chức hỗ trợ tư vấn (bằng những hình thức đa dạng) trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường và năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, có thêm một tiềm lực mới trong công cuộc hội nhập quốc tế