Nghiên cứu ảnh hưởng của một số tham số đến thiết kế dầm SUPER_T Bê tông cốt thép dự ứng lực theo 22 TCN 272_05

2014/4/1 10:32 - Nguồn : ThS. NGUYỄN TRƯỞNG TOÁN - Viện kỹ thuật công trình đặc biệt (ITSE)

TÓM TẮT:

 

Bài báo trình bài cơ sở lý thuyết kiểm toán dầm Super_T BTCT dự ứng lực theo tiêu chuẩn 22TCN 272-05 tương ứng với các giai đoạn làm việc của dầm. Trên cơ sở đó, khảo sát ảnh hưởng của các tham số đến kết quả kiểm toán. Từ kết quả khảo sát, tác giả đã đưa ra các nhận xét quan trọng về các ảnh hưởng này.

 

Abstract:

 

This article focuses on the theoretical basis of all audit prestressed concrete beams under Super_T 22TCN 272-05 corresponds to the working phases of the beam. On that basis, the survey of the impact parameters to the audit results. From the survey results, the author made substantive comments on the impact of this.

 

• ĐẶT VẤN ĐỀ:

 

Ngày nay, trên thế giới và Việt Nam, dầm Super_T bê tông cốt thép dự ứng lực đã và đang sử dụng ngày càng phổ biến bởi những ưu điểm nổi bật như: Tiết kiệm kinh phí do tốc độ xây dựng nhanh, ván khuôn đúc cố định sử dụng được nhiều lần; an toàn trong thi công; hình dáng đẹp, ổn định cao; hiệu quả kết cấu. Tiết diện dầm Super-T qua tính toán và thực tế cho thấy sự phân phối ứng suất trên mặt cắt trong các giai đoạn đã phát huy tốt tính năng của vật liệu.

 

Một trong các ưu điểm của dầm super_T là có thể dùng thuận lợi cho các cầu cong lắp ghép, thiết kế chiều cao vách khác nhau phù hợp với độ siêu cao của mặt cầu. Trọng lượng dầm không quá lớn, việc chuyên chở, cẩu lắp dễ dàng hơn, do đó có thể giảm giá thành thi công. Bản mặt cầu đúc tại chỗ có thể tạo độ kín nước tốt và do đó chống gỉ cho cốt thép tốt hơn. Tuy nhiên, trong thiết kế hiện nay ở Việt Nam, phần lớn sinh viên và kỹ sư còn gặp nhiều khó khăn trong việc hiểu lý thuyết tính toán và chọn lựa các tham số ban đầu khi thiết kế loại dầm này. Việc thiết kế thừa bền, tốn nhiều công sức, không phản ánh sát với các giai đoạn thi công và làm việc thực tế của dầm vẫn còn tồn tại phổ biến.

  

Mời xem chi tiết trên Tạp chí Cầu đường Việt Nam số tháng 3 năm 2014