Tôi bay ra dàn khoan số 2 đây
Nguyễn Hiếu
Ghi chép
Những ngỡ ngàng trên sân bay trực thăng
Ngay từ khi ở Hà Nội tôi đã nhận được thông báo một tin khá đột ngột. Tôi lọt vào danh sách hiếm hoi 4 người trong số 15 kịch tác gia dự trại sáng tác kịch bản sân khấu Vũng Tàu hạ tuần tháng 9 ra thăm dàn khoan dầu khí ngoài khơi Vũng Tàu. Danh sách bốn người đó là nhà văn - Nhà viết kịch Xuân Đức, kịch tác gia Văn Sử phó ban sáng tác, Nguyễn Minh Thân- Phó văn phòng HNSSKVN và tôi. Nhưng vào trại hơn 10 ngày thì Xuân Đức- người tổ chức chuyến ra dàn khoan đột xuất về nhà chống bão. Tối ngày 29/9 lại nhận thông báo. Công ty dầu khí Vietsovpetro chỉ duyệt cho hai người ra dàn khoan, trong đó có tôi.
7 giờ sáng thứ hai 30/9 để bay ra dàn khoan. Vừa nhận tin máu nghề nghiệp sau hơn 40 năm làm báo lại nổi đùng đùng, nhưng liền sau đó áy náy lo chuyến đi bị hoãn vì bão số10- một cơn bão có sức gió lớn tương đương cơn bão Xăng sen vào năm 2006 đã gây ra sức tàn phá khủng khiếp nơi miền trung. Nhưng rồi cuối cùng nỗi lo cũng được vợi đi khi từ phía Công ty Vietsov không có thông tin gì về sự hoãn chuyến đi. Tôi càng yên tâm hơn khi bầu trời phía đông ngoài biển Vũng Tàu vẫn ánh lên màu hồng tinh khiết như than củi đước đang độ đượm báo hiệu chốn này không nằm trong vùng bão.

Vì lần đầu tiên ra dàn khoan bằng máy bay lên thẳng nên loay hoay một hồi lâu, chúng tôi mới đến được phòng làm thủ tục bay. Thật khác xa mọi nhà ga hàng không. Không khí ở đây giống một nơi tập trung công nhân ở một nhà máy chuẩn bị đi làm hơn là một ga hàng không. Theo chỉ dẫn của nhân viên nhà ga, hai chúng tôi đến xem danh sách và rất mừng khi thấy tên của mình được niêm yết trong chuyến bay thứ nhất khởi hành lúc 7 giờ 30. Trong khi chúng tôi lần lượt đứng lên bàn cân thì cô nhân viên làm thủ tục nhìn chúng tôi khá kĩ để so sánh với chứng minh thư tuỳ thân. Liền sau khi phát cho chúng tôi một thẻ bay bằng nhựa cứng màu xanh hình chữ nhật, cô dứt khoát bắt tôi bỏ lại cuốn sổ ghi chép, mũ mềm bất chấp mọi lời giải thích. Một anh thanh niên trẻ, mặt mũi hiền lành sau này tôi mới biết đó là kĩ sư Phan Viết Tùng làm việc ở Dàn khoan số 2 nơi chúng tôi đến. Tùng ghé tai bảo tôi nhét sổ và mũ vào sau lưng. Vì hai thứ quá to, tôi đành xé vội mấy tờ sổ cho gọn vào túi. Không khí ngày càng ồn ào khi lớp lớp công nhân, kĩ sư Việt Nam, Nga đa phần đều khoác hoặc đẩy những chiếc ba lô mầu đen đồng loại. Cầm thẻ xong, chúng tôi vào một phòng nhỏ có đặt một màn hình lớn. Dường như chỉ đợi số người ngồi kín một cô gái xinh đẹp, dong dỏng cao vào bật màn hình. Một màn thuyết minh có minh hoạ bằng rô bốt dậy hành khách về cách mặc phao, xử dụng áo phao khi xẩy ra sự cố máy bay rơi xuống nước. Sau bài hướng dẫn dài gần chục phút chúng tôi ra phòng chờ lớn hơn. Một chiếc xe đẩy chở đầy áo phao lừ lừ đến. Tôi định đến lấy một cái thì cô nhân viên mỉm cười chỉ vào chiếc thẻ đang cầm trên tay của tôi ra hiệu. Đây là loại áo pháo dành cho thẻ vàng, còn thẻ xanh thì đợi. Khi áo phao thẻ vàng vừa hết thì xe đẩy áo phao dành cho thẻ xanh kịp đến. Thấy tôi lúng túng mặc áo phao, Viết Tùng ập đến giúp tôi. Chờ mọi người mặc xong áo, cửa phòng đợi mở ra. Chiếc xe chở chúng tôi vừa đến. Lúc đó nhìn thấy dẫy trực thăng hầu hết thuộc loại Mi-17 nửa sơn màu đỏ đứng thành hàng. Vài ba chiếc đã khởi động, tiếng cánh quạt quay rung lên, cùng làn gió mạnh như bão khiến chúng tôi liêu xiêu khi từ ô tô bước xuống. Lúc đó tôi mới hiểu vì sao cô nhân viên không cho tôi đội mũ và cầm sổ “mọi thứ trên tay và trên đầu anh sẽ bị gió cánh quạt hất tung hết xuống biển”.Tôi nhớ lại lời của cô trong khi cài dây an toàn, chụp ống giảm tiếng ồn trong tiếng gào rú của cánh quạt trực thăng. Tôi nhìn lại đằng sau thấy 24 chiếc ghế đã đủ người ngồi. Máy bay rùng rùng rồi nhấc mình rời khỏi mặt sàn bê tông. Đồng hồ trên tay tôi chỉ 7giờ 46 phút.
Dàn khoan sắt thép và những con người giữa biển khơi
22 con người bay cùng chuyến vừa lên máy bay hầu hết người thì nhắm mắt, người thì gục đầu như ngủ, dường như không người nào nghĩ rằng mình đang lơ lửng lưng chừng trời, trong tiếng gào rú lộng óc. Phó văn phòng Minh Thân cựa quậy nhìn xung quanh. Còn tôi cố giữ sự bình thản nhìn xuống những dẫy núi xanh xẫm lô nhô lứơt nhẹ dưới máy bay. Gần nửa tiếng đồng hồ sau, khi mặt biển mênh mông êm đềm, thoáng gợn những nếp lăn tăn giống hệt mặt đất màu xanh vừa được bừa xới hiện ra tôi mới cảm thấy bình tĩnh lại. Cuối cùng sau 45 phút đùng đùng lướt qua biển, tôi nghe hình như tiếng gió cánh quạt có vẻ nhẹ bớt thì máy bay từ từ hạ xuống. Đôi càng cong vênh gần như không phát ra một tiếng động nhỏ. 24 người lần lượt bước xuống bậc thang gỗ ngắn vừa được người phụ lái kéo ra. Viết Tùng tiến lại gần giúp tôi, cởi áo phao, tháo bịt tai rồi nói khẽ: - Mời hai chú theo cháu vào phòng Dàn Trưởng.

Đứng sững một lúc để trấn tĩnh, sau đó tôi chợt nhận ra mình đã đến Dàn khoan số 2 thuộc mỏ dầu Bạch Hổ, một trong gần hai chục Dàn khoan của Công ty Vietxov đang khai thác dầu khí trên thềm lục địa thuộc hải phận nước ta. Từ trên cao ngó qua cửa sổ trực thăng nhìn thấy thì những dàn khoan như những cái nấm nhỏ bé chồi giữa biển mênh mông. Khi đứng trên khoảng trống như sân thượng của Dàn mới thấy. Dàn khoan 2 quả là một công trình đồ sộ được kết cấu bằng sắt thép. Chưa bao giờ tôi thấy sắt thép lại nhiều và được con người xắp xếp trong một kết cấu hợp lý như vậy để thực hiện mục tiêu của mình. Đúng là một pháo đài sắt thép khổng lồ trụ vững giữa biển khơi, giữa sóng và gió. Những thanh sắt, khối sắt giao nhau hiện hữu như liên kết của mô hình nguyên tử. Những trụ thép, thanh thép, giằng thép cái thì sáng choang một màu trắng bạch kim, cái thì được sơn đỏ chói như phụ hoạ cho ngọn lửa cháy ngùn ngụt biểu tượng cho công nghệ khai thác dầu khí giữa biển khơi. Từ dàn khối thép đi vào khu vực làm việc của dàn khoan tôi bất chợt nhớ lại cảm xúc của 21 năm trước khi đi thực tế trên tàu vận tải viễn dương Điện Biên 01. Khu vực hành chính của dàn khoan giống hệt như các tầng, phòng trên tàu viễn dương với những hành lang nhỏ, thẳng. Hai bên là những căn phòng bé, gọn được khép khít bởi những tấm cửa ra vào bằng sắt nặng luôn tự đóng. Khi bước vào phòng của dàn trưởng nằm ở cuối hành lang thì người đầu tiên tôi gặp lại là Dàn phó Nguyễn Quang Dũng.
Với vẻ bề ngoài từng trải của Dũng khiến người lần đầu gặp dễ lầm tuổi của anh. Trò chuyện một lúc biết Dàn phó Dũng mới vào tuổi 42. Quê Dũng ở huyện Đông Hưng - tỉnh lúa Thái Bình nhưng cả gia đình anh đã vào lập nghiệp phía nam từ hơn hai chục năm nay.. Vợ anh làm kế toán Công ty dầu khí Sài Gòn. Một Công ty mạnh, làm ăn chắc chắn của ngành dầu khí mà tôi có dịp làm việc vào năm 2010. Ngay chức danh lãnh đạo cũng ăn theo chữ Dàn. Dàn trưởng, Dàn phó. Vậy mà tên gọi chính thức của đơn vị này lại là Trung tâm công nghệ số 2 (một trong gần 2 chục Trung tâm - Dàn được đánh số từ 1…) cùng và BK 15 thuộc mỏ Bạch Hổ làm nhiệm vụ khai thác và trung chuyển dầu.
Trung tâm 2 nay biên chế du di ở con số 119 đến 120 người. Trong đó có 7 chuyên gia Nga. Ngoài ra hoạt động trong phạm vi của dàn khoan- Trung tâm 2 này còn có đơn vị của TCT Lắp máy Bộ Xây dựng - Lilama, bộ phận túc trực cứu hoả… Xấp xỉ hơn 100 con người hàng ngày chia làm 2 ca 60 người. Mỗi ca làm việc liền tù tỳ 12 giờ một ngày để khép liền 24/24 giờ để khai thác khoảng 500 mét khối dầu tương đương 5000 tấn, để lấy ra 4800 tấn dầu thương phẩm rót vào những chiếc tàu chứa dầu có tên chung là Sông đà được đánh số từ 1, 2 mang đi bán cho khách. Mỗi tàu có sức chứa từ 15 đến 18 vạn tấn. Trở lại công việc thường nhật của Trung tâm- Dàn 2. Ngoài 4800 tấn thương phẩm đều đặn thu được như vắt chanh. Hàng ngày, trong quá trình khai thác Dàn còn phải làm nhiệm vụ xả 3300 khối nước... Đang trò chuyện với Dàn phó thì Dàn trưởng Trần Trung Hiệp bước trong bộ quần áo bảo hộ đỏ rực màu lửa. Kĩ sư Dàn trưởng Hiệp hơn Dàn phó Dũng một tuổi.. Ngay sau khi tốt nghiệp kĩ sư tại Trường Bách Khoa TP . HCM năm 1997 anh ra nhập đội ngũ những người khai thác dầu. Tính đến nay đã tròn 16 năm lênh đênh trên mặt biển. Với vẻ mặt cố giữ vẻ long trọng để tiếp khách đất liền, nhưng vị Dàn trưởng 43 tuổi này vẫn không dấu được nét duyên và hóm hỉnh của người đàn ông vùng sông nước huyện Châu Thành - Tiền Giang. Nghe tôi kể chuyện cảm giác lần đầu đi trực thăng. Hiệp tủm tỉm: - Hai anh thế là dũng cảm đấy. Ngay bọn em rất quen nhưng đôi lúc cứ ngẫm, bay vè vè từ thành phố trên khoảng biển rộng mênh mông cách đất liền 69 hải lý, theo cách tính đất liền là 120 cây số. Qua cửa sổ trực thăng nhìn xuống dàn khoan khổng lồ bé như cái lá đa. Nhìn tầu viễn dương hàng vạn tấn cứ như con hến mới hay trí tuệ và ý chí con người vĩ đại thật. Khi tôi hỏi về những khó khăn mà dân dầu khí ở Dàn 2 này cũng như các Dàn khác gặp phải hàng ngày. Dàn trưởng Diên xuề xoà bảo: - Cứ làm. Cứ làm rồi quen đi, chai đi… Nhưng nghe anh hỏi thì… Cho em nghĩ một chút để nhận ra điều cần trả lời nhé. Một nụ cười thoáng đọng trên môi. Có lẽ phải qua ngót hai phút im lặng như kiểu dò sóng, Hiệp mới trầm tĩnh kể cho tôi nghe.
Hoá ra hơn trăm con người ngày ngày lảm việc, sinh hoạt nói khoa học là trong một nhịp đơn điệu, monoton. Nói theo kiểu dân dã là trăm ngày như một giữa dàn khoan toàn sắt thép trên diện tích 3600 mét vuông. Trong sự đơn điệu đã hiện hữu như một thử thách trường kì và dai dẳng đó con người trên dàn khoan còn phải tự mình phải chống trọi đủ tai nạn về sự cháy, sự nổ rình rập. Chống trọi với sự khắc nghiệt và trái thói của thời tiết, môi trường. Sáng biển rì rào, trời quang mây tạnh nhưng chỉ thoáng một chút thôi gió gào lên. Sóng cuộn cao như núi, cùng tiếng gầm thét như doạ nạt, như muốn nhấn chìm. Mưa rũ rĩ buồn nẫu người. Mưa như quất vào mặt như roi. Từ độ cao vài ba trăm mét nhìn xuống, nhìn ra xa không khỏi vài mét bởi sương phủ dầy. Rồi trong qui trình hoạt động, mỗi đợt anh em làm việc liên tục 15 ngày trên dàn khoan, rồi về nghỉ hay nói đúng hơn là vào đất liền làm việc. 15 ngày trên dàn khoan thì để thực hiện đúng qui trình khoan dầu. Mỗi ca cứ đều đặn thay nhau. Một tuần chuyên làm ngày, một tuần sau chuyên làm đêm.
Ở Dàn khoan 2 này. Duy nhất có Dàn phó Igo Ri chi Cốp là 55 tuổi còn độ tuổi cao nhất là dàn trưởng Hiệp, Dàn phó Dũng thuộc hạng cao niên mới 42,43 tuổi… Còn tất cả đều ở trên dưới 30 - độ tuổi đang sức trẻ, đang bộc lộ hết khả năng cũng như sinh lý con người. Không chỉ đơn điệu vì công việc mà họ còn chấp nhận 15 ngày chòi chọi trên biển chỉ thấy đàn ông, con trai. 7 ngày làm đêm, rồi 7 ngày làm ngày cũng là một khó khăn không kém nan giải để điều chỉnh đồng hồ sinh học mỗi người. Với tư duy của kẻ viết văn, viết kịch tôi chợt hình dung đến một chàng trai trẻ kiểu như Phan Viết Tùng sau bảy ngày làm đêm rồi chuyển sang làm ngày nhưng đêm xuống muốn ngủ mà không ngủ được. Bước ra ngoài, đi chập chờn, lãng đãng giữa những hành lang thép… Khi Dàn phó Dũng đưa tôi đến phòng điều hành nơi kĩ sư trẻ Phan Viết Tùng đang làm việc. Chỉ hỏi qua tên họ, nghe giọng họ tôi mới hay dàn khoan này tập trung đủ mọi người của các vùng quê. Kĩ sư Hoàng Quốc Bảo quê cố đô Huế. Công nhân hoá nghiệm có cái tên như ở miệt vườn miền tây Nguyễn Mạnh Út lại chính gốc Hải Dương. Rồi Kĩ sư Dương Đức Hiền chịu trách nhiệm vận hành đúng phóc dân Thái Bình… Đa phần mặc bộ đồ màu lửa trong đó có một, hai chàng mặc quần áo thường. Hỏi ra mới biết mấy anh áo quần thường là mấy người làm ca đêm được quyền ngủ ngày nhưng khổ nỗi ngủ không nổi lại lò dò ra chỗ bè bạn đang làm ca. Ở bộ phận vận hành tuy hơn mười anh em đang ngồi có vẻ trầm tư trước những bàn máy tính nhấp nhoáng nhưng thực ra họ đang theo dõi động tĩnh dù nhỏ nhất của dòng dầu từ 17 giếng khoan, 13 mũi khoan đang chuyển động, vận hành ở độ sâu từ 5000 đến 6000 mét dưới mặt biển xanh thẫm này … Để đưa tài nguyên lên và cũng để kịp thời ứng phó với mọi trục trặc, đột biến. Theo các anh cho biết Dàn khoan 2 này ra đời năm 1990 nhưng dưới tác động của thời tiết, của sự vận hành trong khai thác, và cả những đột biến của vùng mỏ nên dàn khoan luôn luôn phải sửa chữa các cấp để duy trì sự làm việc cùng như độ bền của nó. Ở độ sâu hàng mấy ngàn thước như vậy nên để đảm bảo cho sự khai thác tốt thì vấn để duy trì áp lực cho việc khai thác dầu là cực kì quan trọng. Nhiều lần anh em phải bơm cả nước xuống để tăng áp lực cho dòng dầu chảy ngược lên… Dàn phó Dũng đưa chúng tôi đi qua những hành lang công vụ dài hun hút chạy giữa hàng rào sắt đến gần hết mọi bộ phận trong dây chuyền khai thác dầu. Kể cả bộ phận cứu hoả, bộ phận hoá nghiệm... và cuối cũng đến nơi có ba ống vòi giống như vòi nước chốn độ thị đặt trên một máng nhôm. Anh chỉ cho chúng tôi biết tính năng của từng vòi. Nào là vòi nước bị loại ra, để rồi cuối cùng anh bật cho tôi xem dòng dầu nguyên sinh đang được khai thác. Nhìn dòng dầu đặc quánh hao hao như thứ dầu luyn đã qua xử dụng.
Tôi chợt hiểu đấy chính là thứ tài nguyên quí giá mà thiên nhiên đã ưu ái cho vùng biển của tổ quốc ta. Dòng tài nguyên quí giá đó đang ngày đêm chảy ngược lên vòi này xuất đi mang lại ngoại tệ cho quốc gia. Thần mặt ra nhìn dòng dầu nguyên sinh thô đang chảy. Tôi chợt ước ao. Giá đất nước ta đã có công nghệ hoá dầu tiên tiến thì làm gì đến nỗi mỗi ngày chúng ta lấy lên hàng vài trăm nghìn tấn dầu thô xuất đi với giá rẻ mạt chỉ bằng một phần 5, một phần 10 so với những chế phẩm tuyệt vời sinh ra từ công nghệ hoá dầu. Trong khi người ta đang cố gắng bảo vệ luận điểm cần xây dựng nhà máy điện hạt nhân tốn hàng đống tiền mà đầy hiểm hoạ thì 3 chục năm qua chẳng ai nghĩ đến việc đầu tư cho công nghệ hoá dầu. Tôi chợt lo. Cứ đà khai thác được ghi rõ như một biểu tượng của thành tích”năm sau cao hơn năm trước”. Với công suất riêng dàn khoan 2 này một ngày khai thác 4800 tấn thì trữ lượng dầu của ta mới phát hiện là 5,4 triệu tấn thì có lẽ chỉ vài ba chục năm nữa thôi, số tài nguyên quí giá này sẽ cạn đi. Vựa than Đông Bắc của tổ quốc ta mênh mông, đày ắp là thế mà giờ đã róng lên hồi chuông kiệt quệ tài nguyên vì sự khai thác thiếu qui hoạch như đổ của đi thì mỏ dầu này… Thậm chí tôi còn nghe cả những lời đồn thổi nói về một sự thật đau lòng. Kẻ khai thác chính thức và cả không chính thức đã bán tống bán táng tài nguyên của tổ quốc như than non, các loại quặng quí cho những kẻ mua rồi đào hố chôn những thứ tài nguyên đó xuống đất như của để dành cho con cháu họ. Còn thế hệ con cháu chúng ta thì đứng trơ ra với đôi tay nhẵn thín mọi thứ tài nguyên quí giá…
Bước lên dàn khoan 2 này tôi đã nhận ra vài khuôn mặt đàn ông Nga, nhưng người tôi trò chuyện lâu nhất là Dàn phó Igo Ri chi cốp. Với tuổi 55 Dàn phó I go thuộc hàng cao niên nhất ở đây. Vừa giao đãi được mấy câu tôi chợt nhận ra sự đồng điệu giữa ông và tôi. Đó là vì ông từng làm nghề biển ở khá nhiều chức danh trên một con tàu viễn dương. Khi nghe tôi cho biết cũng từng gần một năm lênh đênh trên tàu viễn dương, ông đưa tay ra bắt tay tôi rất nồng nhiệt theo kiểu đồng nghiệp lâu ngày gặp nhau. I go đi tàu viễn dương từ năm 1982, sau gần 30 năm, đến năm 2010 ông mới ra nhập công ty Vietxopetro. Tính đến năm 2013 nay ông đã ở Việt Nam bốn năm và đã làm quen và tỏ ra thích thú với gần chục món ăn Việt Nam. Vợ ông bà I Ri na cùng sang với chồng và đang bán cà phê trong khu vực dân Nga lưu trú. I go bảo tôi, ông đã kí hợp đồng làm việc ở đây đến năm 2016 khi ông tròn 60 tuổi hai vợ chồng ông sẽ về quê Pêtécspua-Ucrai để sống với vợ chồng cậu con trai duy nhất, và cũng để thoả mãn thú vui của ông là chơi và lái xe hơi. Điểm tương đồng thứ hai giữa tôi và I go khi tôi nhắc đến chuyến cơ quan cử tôi sang học tập lớp nâng cao nghiệp vụ 6 tháng ở Trung tâm truyền Hình và Phát thanh Ostankino vào năm 1989. Di sót lại của thời gian đó là tôi có thể nghe và nói bập bõm tiến Nga. Trò chuyện với I go làm trí nhớ quay lại, đôi lúc tôi vọt ra vài tiếng Nga làm I go thích chí liên tục thò tay ra bắt rồi lắc một cách rất nhiệt tình. Vì nghệ nghiệp của mình nên I go đã đặt chân lên khá nhiều quốc gia Khi còn gần một thập niên trứơc khi về hưu ông lại đặt chân và làm việc ở Việt Nam.
Có lẽ vì sự gắn bó với đại dương nên khi chia tay tôi I go cứ nhắc đi nhắc lại “Tôi yêu biển Việt Nam, rất yêu”. Câu nhắc của viên Dàn phó người Nga cũng gần như là tiếng nhại đang vang lên trong lòng tôi một cách kiêu hãnh “tôi cũng vậy. Tôi rất yêu, rất yêu biển của tổ quốc tôi. Rất yêu”