CHUYÊN MỤC CHÍNH

TẠP CHÍ
CẦU ĐƯỜNG VIỆT NAM

Số 25, Tập thể Sư 361, ngõ 35 Nguyễn Bá Khoản Phường Yên Hòa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội

Tel: 0818547216
Email: cauduong308@gmail.com
 

GS, Viện sỹ Trần Đại Nghĩa: Một nhân cách cao cả của nhà khoa học lớn Việt Nam

2013/9/14 21:28 - Thạc sĩ Phạm Bá Nhiễu

Hôm nay, đúng 100 năm Ngày GS Viện sỹ Trần Đại Nghĩa ra đời. Hai ngày trước, tại cuộc Hội thảo “GS Viện sỹ Trần Đại Nghĩa với Cách mạng Việt Nam”, do Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Tỉnh ủy Vĩnh Long tổ chức, các nhà khoa học trong nước đã đánh giá cao tầm tri thức và tính nhân văn của GS Viện sỹ Trần Đại Nghĩa.


Từ ý chí một học trò nghèo vùng quê …
 
Một ngày cách đây hơn 15 năm, khi thực hiện đề tài Văn hóa Vĩnh Long, chúng tôi xin phép và được gặp GS Viện sỹ Trần Đại Nghĩa tại nhà riêng trên đường Nguyễn Trọng Tuyển - Tp. Hồ Chí Minh (lúc đó GS còn chưa ngã bệnh, rất tỉnh táo). Khi chúng tôi hỏi, GS còn nhớ những chuyện về quê hương vùng đất “chín rồng”? ông trầm ngâm rồi hỏi tôi: Sông Măng giờ còn trong như xưa không cháu? Nay bà con ta ở Hoà Hiệp - Tam Bình ta sống như thế nào?
 
Thuở nhỏ, tên thật của ông là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13/9/1913, tại xã Hòa Hiệp - Tam Bình - Vĩnh Long. Cha ông, Phạm Quang Mùi, một nhà nho nghèo, dạy học trò trong vùng rất có uy tín, được nhiều người hâm mộ và luôn giúp đỡ những học sinh nghèo. Khi cha mất sớm ông mới lên 6 tuổi, cùng mẹ là bà Phạm Thị Diệu và người chị gái nay phải nghỉ học, đi làm đủ thứ phụ giúp mẹ, đỡ đần cho cả nhà.
VS Trần Đại Nghĩa đã kể cho chúng tôi: khi cha ông mất, ông chỉ mới vào học bậc tiểu học, người chị ruột ông phải nghĩ học, để nhường cho ông được học tiếp. Nhà nghèo, mẹ phải tần tảo nuôi dưỡng 2 con, nên ông từ nhỏ đi học chiu đói, chịu lạnh là lẽ thường tình và tất nhiên là tự học tập vì mô côi cha từ nhỏ.
Mỗi khi đi học, ông ngồi võ lãi (thuyền nhỏ), để người chị ruột chỉ hơn mình một tuổi chèo võ lãi đưa qua sông Măng. Và từ đó mà dòng sông Măng luôn in đậm trong nổi nhớ thương mẹ tần tảo và người chị gái, phải chèo ghe đưa ông qua sông đi học mỗi ngày, nỗi nhớ đọng đến cả khi sang Paris vẫn nhớ hoài…  là như thế.
 
Ở đây, có thể ta nhìn thấy nhân cách của Trần Đại Nghĩa là nhân cách một người thanh niên luôn nặng lòng vì quê hương, đất nước, gia đình nghèo.  Đó có thể là sự kết tinh sức mạnh văn hóa từ làng quê, trong đó là đi từ văn hóa của vùng đất ham học Vĩnh Long, mà hình thành và trau bồi thêm cho những nét văn hóa cao cả trong ý nghĩ, nhân cách con người GSVS Trần Đại Nghĩa.
Xong tiểu học, ông đậu học bổng lên học trung học ở Sài Gòn. Và từ một một học sinh học giỏi toàn phần, khi bước chân vào trường Fertruts Ký (nay trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong) ông thuộc vào loại học sinh nghèo nhất nhì của trường. Song vì tính chăm chỉ, chuyên cần, thông minh, khi bước chân vào trường là ông đã được bao thầy cô giáo tin tưởng, nhiều bạn bè cảm mến giúp đỡ ông ăn học tại Sài Gòn. Và đây, cũng là một yếu tố đã giúp cho sự hình thành nhân cách thương người nghèo, nặng nghĩa tình trong một học sinh nghèo của Phạm Quang Lễ.
 
Đây cũng chính là những điều ông rất mong ước, các cháu lớp trẻ ngày nay khi có đầy đủ phương tiện học tập trong cuộc đời, hãy cố học cho được vì chữ “nhân” và chữ “nghĩa” như nhiều lần ông vẫn nói chuyện mong ước lớp trẻ.
Năm 1933, Trần Đại Nghĩa thi đỗ hai bằng tú tài, song nhà nghèo, ông không thể học tiếp đại học, đành trở về TP Mỹ Tho làm một chân “thư ký quèn” để kiếm tiền giúp mẹ và chị trong cuộc sống khó khăn lúc bấy giờ. Thời gian này ông có tự học thêm về Luật học.
Hai năm sau (1935), ông Dương Văn Ngươu, một nhân sĩ, nhà báo yêu nước ở Sài Gòn, từ mến mộ tài năng và ý chí ham học giỏi của Phạm Quang Lễ, giúp ông thi được suất học bổng toàn phần trường Chasseloakp Laubat - Pháp. Ông sang Pháp năm đó, đầu tiên là vào học Đại học Cầu -  Đường.
 
Trong thời gian này, tại Sài Gòn những phong trào yêu nước (phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, đám tang cụ Phan Chu Trinh, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh...) tác động nhiều đến tình cảm yêu nước của ông, khơi dậy trong ông sự quan tâm nghiên cứu những vấn đề lịch sử của dân tộc. Sau này, sang Pháp ông nghĩ: “khi sang Pháp học Đại học rồi, tôi đặc biệt nghiên cứu giai đoạn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và tự tìm hiểu nguyên nhân tại sao người dân đất nước mình đều rất trung kiên, mà cuộc khởi nghĩa nào rồi cũng đi vào thế thất bại, tan rã”.
Và từ đó, sau khi tham khảo nhiều tài liệu lịch sử về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam, ông đã rút ra có một nguyên nhân rất quan trọng, là: thất bại của các phong trào yêu nước từ đầu thế kỷ XIX đến bấy giờ: không chịu tiếp thu các cuộc cách mạng khoa học kỷ thuật lần thứ nhất (đối với triều đình Nhà Nguyễn), thiếu vũ khí cần thiết để tự vệ (đối với các phong trào yêu nước của các sĩ phu). Đây là sự nhận thức cần thiết, khi hoài bão về nghiên cứu về các loại vũ khí cần thiết của ông, được hình thành trong những năm học tập, nghiên cứu tại Pháp.
 
Tại Paris, lúc bấy giờ hoài bão của ông được hun đúc, bằng ý chí của một trí thức yêu nước. Và ông kết luận, điều mà ông luôn nghĩ về sự thua thiệt của các cuộc nổi dậy thất bại, là đất nước ta còn quá non kém về kỹ thuật – điều mà ông tham gia về mặt khoa học cho chế tạo vũ khí trong cuộc đấu tranh vũ trang nhằm giải phóng đất nước. Sự nhận thức quan trọng của một nhà khoa học, là sức mạnh hình thành nên những ý tưởng tự nghiên cứu về các loại vũ khí nhằm phục vụ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược.
Và từ những suy nghĩ đó, ông đã bỏ công vào họcngành cầu - đường, rồi ngành Hóa học, tại Đại học Sookbors - Pháp, trường nổi tiếng thế giới. Ngành học mà ông ham thích tìm hiểu là chế tạo vũ khí, các chuyên ngành liên quan đến hóa học. Sau những năm miệt mài, học và thực hành, ông đã đỗ hạng ưu của các ngành hóa học, chế tạo vũ khí. Đây là điều rất cần thiết khi ý chí nung nấu của ông về phục vụ cuộc kháng chiến mà cha ông ta đang trãi qua.
 
Đến nhân cách nhà khoa học luôn nghĩ về đất nước, nhân dân
 
11 năm ở Pháp, Trần Đại Nghĩa, vừa là một chuyên gia am hiểu sâu về chất nổ, am hiểu thành thạo các phản ứng hoá học, am hiểu ngành cầu đường, hàng không… trước khi về nước, ông đang làm kỹ sư chính trong một hãng chế tạo máy bay, với mức lương tương đương 22 lượng vàng/ tháng vào lúc đó.
Ngày 05/7/1946, cùng với hàng vạn Việt kiều tại Pháp, kỹ sư Trần Đại Nghĩa ra sân bay Le Beurget để đón Bác và đoàn cấp cao Chính phủ ta sau CM Tháng 8 sang thăm Pháp. Từ ngày đó, do là người có sự am hiểu nhiều về các trí thức VN tại Pháp, khi Bác làm việc với bà con kiều bào, đều được kỹ sư Trần Đại Nghĩa tháp tùng, đi cùng Bác.
Suốt 2 tháng đi thăm bà con Việt kiều (từ tháng 7/1946 đến tháng 9/1946), Trần Đại Nghĩa đã báo cáo với Bác về tất cả những điều mình biết về thế giới Chiến tranh lần thứ II, đặc biệt về quá trình làm việc, học tập, nghiên cứu khoa học bản thân mình. Ngày 8/9/1946, Bác Hồ gọi Trần Đại Nghĩa đến, cho biết là Hội nghị Phôngtenơblô đã không thành, rồi Bác hỏi thẳng: “Bác về nước, chú chuẩn bị về với Bác. Hai ngày nữa ta lên đường”
 
Thế là từ quyết định được về Tổ quốc, Trần Đại Nghĩa  cùng đoàn của Bác đã rời cảng Tulông vào giữa tháng 9/1946. Sau 40 ngày lênh đênh trên biển Bác Hồ, cùng các bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư Võ Quí Huân, kỹ sư Vũ Đình Huỳnh và kỹ sư Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa) về đến cảng Hải Phòng.
Sau này, VS Trần Đại Nghĩa nhớ mãi lớp chính trị Bác Hồ dạy trong 40 ngày ấy đó là lớp chính trị đầu tiên, có tác dụng rất lớn trong đời ông. Ông kể, lúc tới cảng đêm 11/8/1946, trời tối, trên tàu còn có một mình Bác và tôi, Bác chỉ hỏi tôi có hai câu. Câu thứ nhất “Bây giờ ở nhà cực khổ lắm, chú về có chịu nổi không?”. Tôi trả lời: “Thưa Bác, tôi chịu nổi”. Câu thứ hai Bác hỏi là: “Bây giờ ở nhà kỹ sư, công nhân về vũ khí không có. Máy móc thiếu, liệu chú có làm được việc không?”. Tôi nói: “Thưa Bác, tôi đã chuẩn bị 11 năm rồi và tôi tin là sẽ làm được”.
 
 
Trên chuyến tàu ấy, những điều Bác dạy ông đã tác động lớn, nhất là sự cảm hoá của Bác đối với các trí thức, thật tuyệt vời mà gặp và nghe Người giảng về những điều thực sự cần thiết về Chủ nghĩa Mác Lênin.
7 ngày sau khi về nước (27/10/1946), Phạm Quang Lễ lập tức được giao trực tiếp lên Thái Nguyên, nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu badôca của Mỹ, với hai viên đạn do GS Tạ Quang Bửu cung cấp. Phải bắt tay vào việc ngay, nhưng mới chỉ được ít hôm thì lại có điện gấp từ Bộ Quốc phòng gọi về gặp Bác. Và ngày 5/12/1946 tại Bắc Bộ Phủ, Bác cho mời kỹ sư Phạm Quang Lễ và Người trực tiếp giao cho Phạm Quang Lễ làm Cục trưởng Cục quân giới; chính Người đã đặt tên mới cho ông là Trần Đại Nghĩa - theo Bác là để giữ bí mật cho ông và cho gia đình, cho bà con ông còn ở lại trong miền Nam.
 
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, những phát kiến quan trọng về vũ khí, về kỹ thuật của kỹ sư Trần Đại Nghĩa trong trong điều kiện thiếu thốn nhiều thứ, đã chế tạo thành công các loại lựu đạn, súng phóng lựu, súng cối 50,8 li, mìn phá xe, Bazoka...  kịp thời phục vụ cho cuộc chống trả 9 tuần lễ của thực dân Pháp ngay tại thủ đô Hà Nội.
Một phát kiến mới rất có lợi ích lớn cho cuộc kháng chiến - mà chính Viện sĩ kể lại -  sau khi nghiên cứu, thấy tại khu rừng Việt Bắc, có nhiều phân dơi, và Trần Đại Nghĩa đã chỉ đạo lấy diêm tiêu trong phân dơi khu rừng đóng quân, để làm thuốc súng. Ông còn dùng đường ray xe lửa loại cũ làm nòng súng cối 50,8 li, rồi lấy bình ôxy làm nòng súng 205 li...v…v… Đặc biệt, sau bao nhiêu lần thất bại, Trần Đại Nghĩa đã chế tạo thành công súng Bazoka trên cơ sở thiết kế lại toàn bộ quả đạn Bazoka của Mỹ cho phù hợp điều kiện tác chiến chiến trường Việt Nam. Tác dụng lớn là súng Bazoka và súng không giật, do ông nghiên cứu chế tạo, ngoài chống xe tăng, bọc thép, còn đánh cả tàu chiến chạy gần bờ hoặc dập tắt hỏa lực hay bắn tan đội hình địch tập trung số quân đông.
 
Đây là một mốc mới trong cuộc đời của nhà khoa học Trần Đại Nghĩa, từ một nhà khoa học, thêm nhiệm vụ chỉ đạo công tác quân giới - vũ khí cho Quân đội trong chiến tranh. Và trong đợt phong hàm tướng lĩnh đầu tiên ngày 28 - 5 – 1948, cho 9 vị tướng thì có Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa - nhà khoa học đầu tiên mang hàm tướng lĩnh của Quân đội anh hùng.
 
Một nhân cách tận tụy, tận tâm trong sự nghiệp khoa học nước nhà
 
Như vậy, từ một trí thức, theo Bác Hồ về nước, say mê, tận tụy với nghề chế tạo vũ khí phục vụ kháng chiến, Trần Đại Nghĩa đã cống hiến những sáng chế rất quan trọng về vũ khí, về khoa học cho Quân đội ta, cho 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Sau khi được Đảng, Nhà nước cử làm Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, Chủ nhiệm Ủy Ban khoa học kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học VN, đồng thời là Chủ tịch các Hội liên hiệp khoa học kỹ thuật Việt Nam. Năm 1966, ông được bầu làm Viện sỹ nước ngoài của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, rồi Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học CHDC Đức. Trên cương vị nào, ông cũng để lại những tình cảm tốt đẹp nhất đối với các nhà quân sự, cũng như giới trí thức 2 miền. Khi được nghỉ hưu, ông vào sống tại Tp.Hồ Chí Minh, song vẫn rất chú ý đến công tác đào tạo, bồi dưỡng những nhân tài của đất nước và của Viện Khoa học Việt Nam. Đối với các nhà khoa học sau này, như GS Nguyễn Văn Hiệu, GS Phan Đình Diệu, cùng bao nhiên thế hệ các nhà khoa học khác, đều ghi nhớ mãi trong tâm mình, về việc “nhân” việc “nghĩa” trong con người GS VS Trần Đại Nghĩa.
 
Những ngày cuối đời, ông luôn khắc khoải về hình ảnh người mẹ và chị ruột của mình trên sông Măng, mà lúc mẹ mất do còn ở Pháp xa xôi, ông không được về để chịu tang mẹ. GS VS Trần Đại Nghĩa qua đời tại TP.Hồ Chí Minh ngày 9 - 8 - 1997, hưởng thọ 85 tuổi.

Đảng, Nhà nước ta đánh giá rất cao về các công trình nghiên cứu của Viện sĩ. Năm 1996, GSVS Trần Đại Nghĩa vinh dự được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu chế tạo Bazoka, súng không giật, đạn bay những năm kháng chiến chống Pháp. Các công trình nghiên cứu của ông đã được quốc tế đánh giá cao, được ứng dụng rộng rãi trong Quân đội và là nỗi kinh hoàng của đối phương. Giáo sư đã được phong tặng Anh hùng Lao động năm 1952. Tên tuổi của ông hiện đặt cho ngôi trường chuyên ở Tp.Hồ Chí Minh, cũng như nhiều con đường lớn tại các tỉnh, thành phố, cùng nhiều giải thưởng khoa học trong nước. Đó là những ghi nhận để luôn nhớ về một nhà khoa học hàng đầu, một người thầy đã có công lao trong nhiều lĩnh vực khoa học và đào tạo nhân tài đất nước ta./. 



GỬI Ý KIẾN


VIDEO CLIP
Xem thêm >>
THƯ VIỆN HÌNH ẢNH