CHUYÊN MỤC CHÍNH

TẠP CHÍ
CẦU ĐƯỜNG VIỆT NAM

Số 25, Tập thể Sư 361, ngõ 35 Nguyễn Bá Khoản Phường Yên Hòa, Quận Cầu Giấy, Hà Nội

Tel: 0818547216
Email: cauduong308@gmail.com
 

Ngành Đường bộ Việt Nam: 80 năm "Đi trước mở đường", phát triển hạ tầng, kiến tạo tương lai

2025/9/8 15:13 - Nguồn: Báo Nhân Dân

Trải qua 80 năm hình thành và phát triển, ngành đường bộ Việt Nam (ĐBVN) đã gắn liền với những mốc son của lịch sử dân tộc: từ “đi trước mở đường” trong hai cuộc kháng chiến, khôi phục sau chiến tranh, đến từng bước làm chủ công nghệ hiện đại để kiến tạo hệ thống cao tốc, cầu, hầm quy mô lớn


Ngành không chỉ góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn là động lực quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Nhân dịp này, Báo Nhân Dân đã có cuộc phỏng vấn ghi nhận những đánh giá, phân tích sâu sắc của nguyên Thứ trưởng Thường trực Giao thông vận tải, Chủ tịch Trung ương Hội Khoa học kỹ thuật Cầu đường Việt Nam -Ngô Thịnh Đức về chặng đường 80 năm của ngành đường bộ Việt Nam.
 
Ông Ngô Thịnh Đức nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT (nay là Bộ Xây dựng)
 
Những dấu mốc quan trọng của ngành đường bộ
 
Phóng viên: Thưa ông, nếu khái quát trong một vài dấu ấn tiêu biểu, ông sẽ chọn những cột mốc nào để nói về sự hình thành và phát triển của ngành đường bộ Việt Nam trong 80 năm qua?
 
Nguyên Thứ trưởng Ngô Thịnh Đức:  Nói về 80 năm phát triển ngành đường bộ Việt Nam, theo tôi nên điểm lại một số mốc sau:
 
Giai đoạn trước năm 1975, ngành đường bộ ở hai miền thực hiện hai nhiệm vụ khác nhau. Ở miền bắc, Cục Quản lý đường bộ đảm nhiệm vai trò “đi trước mở đường”, vận chuyển vũ khí, lương thực, hàng hóa chi viện chiến trường. Ở miền nam, lực lượng giao thông bưu vận cũng vừa vận tải, vừa đưa người và thông tin, góp phần to lớn vào sự nghiệp kháng chiến.
 
Giai đoạn 1975–1976, sau ngày đất nước thống nhất, Cục Quản lý đường bộ ra đời với Phân cục miền nam. Miền bắc tập trung khôi phục hệ thống sau chiến tranh, miền nam tái thiết mạng lưới bị chia cắt. Đây cũng là giai đoạn thống nhất dần các tiêu chuẩn kỹ thuật: miền nam theo ASO, miền bắc theo C-NIP (Liên Xô). Đến năm 1992, chúng ta cơ bản thống nhất tiêu chuẩn.
 
Từ năm 1992, Cục Đường bộ được tái thành lập trên cơ sở sáp nhập Cục Vận tải ô-tô và Cục Quản lý đường bộ, ổn định mô hình cho đến nay.
 
Sau năm 1995, khi Việt Nam từng bước thoát khỏi cấm vận, nhiều công nghệ, tiêu chuẩn hiện đại được đưa vào qua các dự án ODA.
 
Từ 2000 đến hiện nay, chúng ta làm chủ nhiều công nghệ tiên tiến, ban hành Luật Đường bộ (2001), hoàn thiện tiêu chuẩn kết cấu móng đường, đồng thời tự chủ thiết kế và thi công cầu, hầm, sân bay, cao tốc.
 
 

Dự án hầm Cổ Mã dài 500m đã góp phần xóa "điểm đen" trên QL1A
 
Lực lượng “đi trước mở đường” trong kháng chiến chống Mỹ
 
Phóng viên: Trong giai đoạn chiến tranh, ngành đường bộ đã đóng vai trò như thế nào trong phục vụ kháng chiến, thưa ông?
 
Nguyên Thứ trưởng Ngô Thịnh Đức: Trong giai đoạn chiến tranh ở nước ta, có thể khẳng định, ngành đường bộ là lực lượng “đi trước mở đường”, bảo đảm giao thông vận tải chi viện chiến trường.
 
Ở miền bắc, nhiều đơn vị thanh niên xung phong, công binh, cục công trình được thành lập để sửa chữa đường, khắc phục bom phá, với khẩu hiệu “sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm”.
 
Các bến phà trọng yếu như Bến Thủy, Sông Gianh, Khóa Hậu, Bãi Cháy đảm nhận vận chuyển an toàn. Nhiều đơn vị phối hợp Đoàn 559 vận chuyển vào nam.
 
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, riêng miền bắc có 19 tập thể, 27 cá nhân được phong Anh hùng. Ở miền nam, nhiều chiến sĩ giao bưu, vận tải cũng được vinh danh, gắn liền với các địa danh lịch sử như Ngã ba Đồng Lộc, Truông Bồn. Có thể nói, ngành đường bộ đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử, xứng đáng với danh hiệu “thành tích anh hùng”.
 
Phóng viên: Từ ngày đất nước thống nhất đến nay, đâu là thành tựu nổi bật nhất của ngành đường bộ, thưa ông?
 
Nguyên Thứ trưởng Ngô Thịnh Đức: Thành tựu lớn nhất là chúng ta đã đi từ một nền tảng hạ tầng nghèo nàn, thủ công sau chiến tranh đến làm chủ công nghệ xây dựng hiện đại:
 
Đổi mới tư duy xây dựng móng đường, từ cấp phối đá dăm cũ sang tiêu chuẩn hiện đại; Làm chủ công nghệ cầu: từ dầm bê tông cốt thép sang dự ứng lực, đúc hẫng cân bằng, cầu vòm thép; Xây dựng được hệ thống đường bê tông nhựa, hầm xuyên núi, cầu dây văng, cầu vượt biển…; Từng bước làm chủ công nghệ xây dựng cao tốc, tự chủ từ thiết kế đến thi công. Thành tựu lớn nhất là chúng ta đã đi từ một nền tảng hạ tầng nghèo nàn, thủ công sau chiến tranh đến làm chủ công nghệ xây dựng hiện đại .
 
Phóng viên: Vậy những công trình nào ông cho là biểu tượng của trí tuệ và sức sáng tạo Việt Nam?
 
Nguyên Thứ trưởng Ngô Thịnh Đức: Với ngành đường bộ thì có nhiều công trình tiêu biểu, nhưng có những công trình thực sự tiêu biểu cần nhắc tới trong đó:
 
Cầu Chương Dương, biểu tượng của Hà Nội sau giải phóng; Đường Hồ Chí Minh, đặc biệt nhánh tây, minh chứng cho tổ chức và công nghệ thi công; Cao tốc Bắc Thăng Long-Nội Bài, tuyến đầu tiên áp dụng công nghệ mặt đường bê tông; Cầu Thị Nại (Bình Định), cầu vượt biển đầu tiên do Việt Nam hoàn toàn tự chủ, độc lập xây dựng; Cầu Rạch Miễu, cây cầu dây văng hiện đại đầu tiên do Việt Nam tự thiết kế, thi công; Cao tốc Sài Gòn, Trung Lương, tuyến cao tốc đầu tiên hoàn toàn bằng vốn trong nước; Các hầm lớn: Đèo Cả, Cù Mông; Nhiều cây cầu đặc sắc: cầu Rồng (Đà Nẵng), cầu Bạch Đằng (Hải Phòng), …; Hệ thống đường ở Phú Quốc, góp phần biến đảo ngọc thành trung tâm du lịch, kinh tế.
 
Cầu Rồng Đà Nẵng là một trong các công trình độc đáo
 
Phóng viên: Để có được những thành tựu ấy, ngành cầu đường đã tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật như thế nào, thưa ông?
 
Nguyên Thứ trưởng Ngô Thịnh Đức: Có thể khẳng định, ngành ĐBVN đã hội nhập mạnh mẽ về tiêu chuẩn, công nghệ, tôi có thể điểm một số những công nghệ tiêu biểu áp dụng trong ngành đường bộ tại nước ta đã thực hiện được:
 
Chuyển từ tiêu chuẩn Liên Xô cũ sang tiêu chuẩn tính toán hiện nay; Ứng dụng công nghệ mới về kết cấu móng, gia cố nền đường bằng bấc thấm, đất xi-măng…; Phát triển công nghệ cầu dây văng, cầu treo vòm thép, bê-tông dự ứng lực; Áp dụng vật liệu tiên tiến như cáp bọc epoxy, gối chậu, khe co giãn răng lược; Đưa vào sử dụng bê tông nhựa polyme, tái chế mặt đường để bảo vệ môi trường; Quản lý hầm hiện đại với hệ thống biến tần, tiết kiệm năng lượng, giảm ô nhiễm.
 
Ngành giao thông cần giải các bài toán về vốn, công nghệ, quy hoạch, kết nối…
 
Phóng viên: Dưới góc nhìn của một chuyên gia nhiều kinh nghiệm, theo ông, hiện nay, ngành đường bộ đang đối diện với những thách thức gì?
 
Nguyên Thứ trưởng Ngô Thịnh Đức: Nói về thách thức với ngành đường bộ thì phải nói tới:
 
- Vấn đề về “vốn”, chúng ta đều biết, hiện nay ngành giao thông nói chung, ngành đường bộ nói riêng đều không còn nhiều ODA, chủ yếu dựa vào PPP, trong khi nhu cầu hơn 6.000km cao tốc là thách thức rất lớn.
 
- Về công nghệ và quản lý, theo tôi cần hiện đại hóa, áp dụng tiêu chuẩn tiên tiến.
 
- Về kết nối hạ tầng, cao tốc phải gắn kết với đường sắt tốc độ cao, cảng biển, sân bay, logistics.
 
- Về quy hoạch, cần điều chỉnh quy hoạch hệ thống đường bộ phù hợp mô hình phát triển mới.
 
- Về môi trường, phải tính toán giải pháp vừa phát triển hạ tầng, vừa giảm chiếm dụng đất, tái chế vật liệu.
 
Chính phủ đang chỉ đạo phấn đấu cuối năm 2025, cả nước sẽ có 2.500 km đường bộ cao tốc phía Đông
 
Phóng viên: Vậy theo ông, đâu là giải pháp để ngành giao thông phát triển trong giai đoạn tới?
 
Nguyên Thứ trưởng Ngô Thịnh Đức: Để ngành đường bộ nước ta phát triển phục vụ tốt cho chuỗi logistic phát triển kinh tế-xã hội, cần đồng bộ nhiều giải pháp:
 
Xây dựng đường trên cao để tiết kiệm đất, bảo vệ môi trường; Kết hợp quy hoạch đường bộ với đường sắt tốc độ cao để tối ưu hành lang đất; Đẩy mạnh tái chế mặt đường, công nghiệp hóa cấu kiện xây dựng; Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, kết nối đào tạo giữa các trường lớn như Giao thông vận tải, Xây dựng, Bách khoa; Ổn định mô hình quản lý, có chiến lược tiếp cận công nghệ mới, chủ động thay vì chạy theo sự vụ.
 
Phóng viên: Theo ông, để bắt kịp trình độ các nước tiên tiến, ngành đường bộ Việt Nam cần làm gì?

Nguyên Thứ trưởng Ngô Thịnh Đức:  Theo tôi để bắt kịp với trình độ các nước tiên tiến về lĩnh vực xây dựng-phát triển đường bộ, trước hết, phải nhanh chóng ổn định mô hình quản lý, xây dựng chiến lược nhân lực và chiến lược công nghệ.
 
Đồng thời, cần khẩn trương đánh giá lại hệ thống tiêu chuẩn hiện nay, bồi dưỡng lực lượng kỹ sư, tiếp cận công nghệ tiên tiến toàn cầu. Chỉ có như vậy, ngành đường bộ Việt Nam mới có thể tự tin hội nhập và phát triển bền vững.
 
Phóng viên: Xin chân thành cảm ơn ông đã trả lời phỏng vấn!
 
Nguồn: Báo Nhân Dân.
 

 



GỬI Ý KIẾN


VIDEO CLIP
Xem thêm >>
THƯ VIỆN HÌNH ẢNH