Với mục tiêu nhằm nhanh chóng hình thành mạng đường bộ cao tốc quốc gia, bảo đảm kết nối các trung tâm kinh tế trọng điểm, các cửa khẩu chính, các đầu mối giao thông quan trọng có nhu cầu vận tải lớn, tốc độ cao. Trong đó, tập trung xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bắc Nam, ưu tiên các tuyến đường cao tốc nối các thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng), các tuyến ra các cảng biển lớn.
Đồng thời, tạo khả năng liên kết cao với các phương thức vận tải hiện đại khác và hội nhập khu vực, quốc tế. Đường bộ cao tốc được thiết lập tách biệt nhưng phải đảm bảo liên kết được với mạng đường bộ hiện có, bảo đảm môi trường và cảnh quan; góp phần giải quyết ách tắc giao thông, trước hết tại các thành phố lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Cụ thể, tuyến cao tốc Bắc - Nam được quy hoạch 2 tuyến với tổng chiều dài khoảng 3.083 km (tuyến cao tốc phía Đông dài 1.814 km; tuyến phía Tây dài 1.269 km). Hệ thống đường cao tốc khu vực phía Bắc gồm 14 tuyến cao tốc hướng tâm kết nối với Thủ đô Hà Nội với tổng chiều dài 1.368 km.
Trong đó, tuyến cao tốc Hà Nội - Bắc Giang - Lạng Sơn dài 143 km; Hà Nội - Hải Phòng dài 105 km; Hà Nội - Việt Trì - Lào Cai dài 264 km; Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long dài 176 km; Hạ Long - Móng Cái dài 128 km; Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh dài 160 km; Đồng Đăng - Trà Lĩnh dài 144 km...
Hệ thống đường cao tốc khu vực miền Trung và Tây Nguyên gồm 3 tuyến với tổng chiều dài 264 km. Trong đó, tuyến cao tốc Hồng Lĩnh - Hương Sơn dài 34 km; Cam Lộ - Lao Bảo dài 70 km; Quy Nhơn - Pleiku dài 160 km. Hệ thống đường cao tốc khu vực phía Nam gồm 7 tuyến với tổng chiều dài 983 km. Trong đó, tuyến cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng dài 200 km; Hà Tiên - Rạch Giá - Bạc Liêu dài 225 km; Cần Thơ - Cà Mau dài 150 km...
Các tuyến đường cao tốc trong Quy hoạch được hoạch định với quy mô hoàn chỉnh, tuy nhiên trong quá trình thực hiện có thể phân kỳ xây dựng để phù hợp với lưu lượng xe và khả năng huy động nguồn vốn, nhưng phải tiến hành quản lý quỹ đất để hạn chế chi phí giải phóng mặt bằng sau này.